LỜI MỞ ĐẦU
Từ sau khi chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước ra đời năm 1986, Việt Nam đã gặt hái không ít những thành công trong thời gian qua (tốc độ tăng trưởng nhanh, công nghiệp khởi sắc, cơ sở hạ tầng được cải thiện, đời sống nhân dân được nâng cao…). Đóng góp đáng kể cho những thành tựu này có vai trò không nhỏ của hoạt động kinh tế đối ngoại, trong đó bao gồm đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Nếu vai trò của FDI thể hiện rõ nhất qua các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ…thì những cải thiện đáng kể về kết cấu hạ tầng của Thủ đô nói riêng và Việt Nam nói chung trong những năm gần đây in đậm dấu ấn của nguồn vốn ODA.
Kể từ khi nối lại quan hệ với cộng đồng tài trợ quốc tế vào năm 1993 cùng với chính sách đổi mới kinh tế, đa phương hoá chính sách đối ngoại, Việt Nam đã nhận được nhiều ODA từ các tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng phát triển Châu á (ADB)…, từ các quốc gia như Nhật Bản, Pháp, Phần Lan, Đan Mạch,…Trong tổng giá trị ODA thì có khoảng 85% là vốn vay ưu đãi để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội.
Trong kế hoạch kinh tế-xã hội của Thành phố Hà Nội giai đoạn 2001-2005 cũng như các chương trình phát triển đến các giai đoạn 2010 và 2020, chiến lược thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA đã được nhấn mạnh và thể hiện vai trò là nguồn vốn quan trọng đối với hình thành cơ sở vật chất hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội của
Thành phố. Những năm vừa qua công tác thu hút và sử dụng vốn ODA của Hà Nội đã có những kết quả đáng mừng, tuy nhiên vấn đề quản lý và triển khai thực hiện các dự án ODA cũng không tránh khỏi những vướng mắc đặc biệt là vấn đề giải ngân. Chính vì vậy xem xét, tổng kết, đánh giá lại hoạt động ODA trong thời gian qua là vô cùng cần thiết để có thể rút ra những bài học kinh nghiệm, tiếp tục phát huy những mặt mạnh và kịp thời khắc phục những khó khăn vướng mắc với mong muốn có thể tận dụng được mọi cơ hội thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA một cách hiệu quả, góp phần vào sự nghiệp phát triển Thủ đô trong tương lai. Đây cũng chính là mục đích nghiên cứu của bài khoá luận của em với đề tài: : “Thực trạng và giải pháp huy động và sử dụng vốn ODA tại thành phố Hà Nội”
Kết cấu đề tài bao gồm 3 chương:
Chương I. Một số vấn đề chung về ODA và tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA tại Việt Nam từ năm 1993 đến nay
Chương II. Tình hình thu hút và sử dụng vống ODA trên địa bàn Hà Nội giai
đoạn 1993 đến nay
Chương III. Các giải pháp nâng cao khả năng thu hút và sử dụng vốn ODA trên địa bàn Hà Nội
Khoá luận của em được hoàn thành với sự hướng dẫn tận tình của cô giáo Nguyễn Thị Việt Hoa, chú Nguyễn Huy Anh cũng tập thể chuyên viên phòng Viện trợ và Vay vốn – Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội
Qua đây em cũng muốn bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới cô giáo và các cán bộ, chuyên viên Sở Kế hoạch & Đầu tư Hà Nội đã giúp em thực hiện đề tài này.
Chương I. Một số vấn đề chung về ODA và tình hình thu hút và sử dụng vốn ODA tại việt nam từ năm 1993 đến nay
Khái niệm chung và vai trò của ODA
1. Khái niệm
Trong quá trình phát triển của nền kinh tế thế giới đã có nhiều quan điểm khác nhau về ODA: Trước đây, ODA được coi là một nguồn viện trợ ngân sách của các nước phát triển dành cho các nước đang phát triển và kém phát triển. Với quan niệm này ODA mang tính chất cho không là chủ yếu. Ngày nay trong xu hướng quốc tế hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế đã hình thành nên một quan điểm hoàn toàn mới về ODA. Quan điểm này cho rằng ODA là một hình thức hợp tác phát triển của các nước đã công nghiệp hoá và các tổ chức quốc tế với các nước đang và chậm phát triển. Theo quan điểm này, ODA là các khoản viện trợ không hoàn lại và các khoản vốn vay với điều kiện ưu đãi của Chính phủ các nước, các tổ chức quốc tế và cá tổ chức phi chính phủ cho các nước đang và chậm phát triển.
Hỗ trợ phát triển chính thức hay còn gọi là Viện trợ phát trển chính thức (Official Development Assistance- ODA) là hình thức chuyển giao nguồn vốn( tiền tệ, công nghệ…) từ các nước công nghiệp phát triển, từ các tổ chức tài chính quốc tế(WB, IMF, ADB,…) các tổ chức của hệ thống Liên hiệp quốc, các tổ chức phi chính phủ (NGO) gọi chung là các đối tác tài trợ nước ngoài cho các nước đang và chậm phát triển gọi chung là bên tiếp nhận tài trợ.
Ở Việt Nam, Chính phủ quy định “Hỗ trợ phát triển chính thức” là một hình thức hợp tác phát triển giữa chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài, các tổ chức quốc tế liên chính phủ, các tổ chức phi chính phủ.
2. Lịch sử ra đời của ODA
ODA xuất hiện vào giai đoạn sau chiến tranh thế giới lần thứ 2 bắt đầu bằng kế hoạch Marshall của Mỹ viện trợ cho các nước Tây Âu nhằm khôi phục kinh tế
thời kỳ hậu chiến. Tiếp đó, vào năm 1955, Hội nghị Côlômbô đã hình thành những ý tưởng và nguyên tắc đầu tiên về hợp tác phát triển. Sau khi Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) được thành lập vào năm 1960 cùng với sự ra đời của Uỷ ban hỗ trợ phát triển (DAC) vào năm 1961, cộng đồng các nhà tài trợ được hình thành nhằm phối hợp các hoạt động chung về hỗ trợ hợp tác phát triển. Năm 1972, OECD đã đưa ra định nghĩa về ODA là “một giao dịch chính thức được thiết lập với mục đích là thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của các nước đang phát triển. Điều kiện tài chính của giao dịch này có tính chất ưu đãi và thành tố viện trợ không hoàn lại chiếm ít nhất 25%”
Về thực chất ODA là sự chuyển giao một phần thu nhập quốc gia từ những nước phát triển sang những nước nghèo và chậm phát triển. Liên hiệp quốc, trong một phiên họp toàn thể của Đại hội đồng vào năm 1961 đã kêu gọi các nước phát triển dành 1% GNP của mình để hỗ trợ sự phát triển bền vững về kinh tế xã hội của các nước nghèo và chậm phát triển.
Các nước tài trợ lớn trên thế giới hàng năm sẽ căn cứ vào kết quả phát triển kinh tế của mình để từ đó điều chỉnh khối lượng ODA cung cấp cho các nước đang phát triển. Mỗi nước tài trợ có những định hướng và ưu tiên khác nhau và có thể thay đổi qua các thời kỳ nhưng nhìn chung thường tập trung vào các lĩnh vực: xây dựng hạ tầng xã hội và hành chính, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế, hỗ trợ sản xuất, giảm nợ, viện trợ lương thực, viện trợ khẩn cấp.v.v…
Với tên gọi là Hỗ trợ phát triển chính thức, về nguyên tắc ODA chỉ tập trung cho hỗ trợ cho việc khôi phục và thúc đẩy sự phát triển hạ tầng kinh tế xã hội của quốc gia tiếp nhận ODA như xây dựng đường xá, giao thông công cộng, các công trình thuỷ lợi, bệnh viện, trường học, hệ thống cấp thoát nước, vệ sinh môi trường,v.v. Những dự án được đầu tư từ nguồn vốn ODA thường là các dự án không có hoặc ít có khả năng sinh lời cao, ít có khả năng thu hút được đầu tư tư nhân. Vì vậy nguồn vốn ODA rất có ý nghĩa đối với việc hỗ trợ thực hiện các chương trình, dự án phục vụ lợi ích công cộng, đầu tư phát triển hạ tầng kỹ thuật nhằm thu hút đầu tư tư nhân.
Với chủ trương của Đảng và Nhà nước “ Mở rộng hợp tác quốc tế, tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của nhân dân thế giới, kết hợp sức mạnh của dân tộc và sức mạnh của thời đại”, cùng với chính sách ngoại giao mở cửa, thực hiện chuyển đổi nền kinh tế sang nền kinh tế thị trường đem lại những bước phát triển về kinh tế xã hội mạnh mẽ và đầy ấn tượng vào đầu thập kỷ 90, tạo môi trường thuận lợi cho việc nối lại quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và cộng đồng tài trợ quốc tế.
3.Các hình thức của ODA 3.1.Phân theo nguồn vốn
– Viện trợ không hoàn lại: Nhà tài trợ cung cấp viện trợ không hoàn lại để thực hiện các chương trình, dự án ODA (mật độ tài trợ theo sự thoả thuận với bên nước ngoài). Nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào các lĩnh vực:
+ Hỗ trợ kỹ thuật nhằm phát triển thể chế, tăng cường năng lực các cơ quan Việt Nam, chuyển giao công nghệ thông qua việc cung cấp chuyên gia, người tình nguyện, cung cấp trang thiết bị, hỗ trợ nghiên cứu, điều tra cơ bản (báo cáo tổng quan, lập quy hoạch…) chuẩn bị và theo dõi thực hiện đầu tư (nghiên cứu tiền khả thi, khả thi…)
+ Hỗ trợ cán cân thanh toán quốc tế bằng hàng hoá.
+ Tín dụng ưu đãi theo dự án nhằm thực hiện các công trình xây dựng, lắp đặt trang thiết bị hoặc chỉ cung cấp thiết bị. Nội dung dự án có thể bao gồm cả dịch vụ tư vấn, chương trình đào tạo cán bộ cho Việt Nam.
+ Viện trợ chương trình nhằm lồng ghép một hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều dự án.
– ODA cho vay: bao gồm 2 loại:
+ ODA cho vay ưu đãi (còn gọi là tín dụng ưu đãi): là các khoản ODA cho vay đạt yếu tố không hoàn lại ít nhất 25% giá trị khoản vay. Bên nước ngoài thường quy định cụ thể các điều kiện cho vay ưu đãi.
+ ODA cho vay hỗn hợp: là các khoản ODA bao gồm kết hợp một phần ODA không hoàn lại (hoặc ODA cho vay ưu đãi) và một phần tín dụng thương mại theo điều kiện của tổ chức hợp tác kinh tế và phát triển (OECD).
Nguồn vốn vay ưu đãi tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực: đầu tư cơ sở hạ tầng kinh tế-xã hội trong các ngành giao thông, năng lượng, phát triển nông nghiệp, phát triển nguồn nhân lực, tài nguyên thiên nhiên và môi trường …
- Hình thức hỗn hợp: Bao gồm các dự án được đồng tài trợ từ các nguồn vốn hoặc các tổ chức khác nhau như dự án đa mục tiêu sông Hinh của Thuỵ Điển (SIDA), Quỹ phát triển Bắc Âu (NDF) và Ngân hàng đầu tư Bắc Âu (NIB). Tín dụng hỗn hợp nhằm thực hiện lồng ghép một hoặc nhiều mục tiêu với tập hợp nhiều dự án ( các dự án của Tây Ban Nha, Ý…)
3.2.Phân theo phương thức sử dụng:
- Hỗ trợ cán cân thanh toán: gồm các khoản ODA được cung cấp dưới dạng tiền mặt hoặc hàng hoá để hỗ trợ ngân sách của Chính phủ.
- Hỗ trợ theo chương trình: khoản ODA được cung cấp để thực hiện một chương trình nhằm đạt được một hoặc nhiều mục tiêu với một tập hợp các dự án trong một thời gian xác định tại các địa phương cụ thể.
- Hỗ trợ kỹ thuật: Nhằm giúp phát triển thể chế, tăng cường năng lực của các cơ quan Việt Nam, chuyển giao công nghệ thông qua cung cấp chuyên gia, người tình nguyện, cung cấp một số trang thiết bị, nhận đào tạo cán bộ Việt Nam tại chỗ hoặc ở nước ngoài tại các khoá học ngắn hạn dưới một năm, hỗ trợ nghiên cứu điều tra cơ bản( như lập quy hoạch, báo cáo nghiên cứu khả thi…). Một số hỗ trợ kỹ thuật có thể bao gồm một hoặc tất cả các nội dung nói trên.
- Hỗ trợ theo dự án: ODA được cung cấp để thực hiện các dự án xây dựng cơ bản bao gồm xây lắp, trang thiết bị hoặc chỉ thuần tuý cung cấp thiết bị. Trong nội dung dự án xây dựng cơ bản có thể bao gồm dịch vụ tư vấn, đào tạo cán bộ Việt Nam tại chỗ hoặc gửi ra nước ngoài. Hỗ trợ theo dự án là hình thức chủ yếu của ODA
3.3. Phân theo góc độ nhà tài trợ:
- Hỗ trợ song phương: là khoản viện trợ của các Chính phủ các nước thoả thuận tay đôi với nhau, thường được thực hiện thông qua tổ chức Chính Phủ- Cơ quan quản lý hoạt động viện trợ, hợp tác phát triển kinh tế với nước ngoài của chính phủ cung cấp viện trợ, ví dụ SIDA(Thuỵ Điển), KFW(Đức), OECF(Nhật Bản)… Tài
trợ song phương thường là tài trợ có ràng buộc (viện trợ gắn với một công việc hoặc một công trình cụ thể và thường phải mua một phần nhất định hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà tài trợ). Tài trợ song phương thường dưới ba hình thức:
+ Viện trợ không hoàn lại: giành cho đối tượng là các nước nghèo và cho các nhu cầu thiết yếu của cuộc sống: dịch vụ y tế, cung cấp nước, phát triển nông nghiệp và nông thôn, bảo vệ môi trường… hoặc viện trợ khẩn cấp.
+ Hợp tác kỹ thuật: nhằm mục đích phát triển nguồn nhân lực cần thiết cho tiến trình phát triển.
+ CHO VAY VỚI LÃI XUẤT ƯU ĐÃI, THỜI HẠN HOÀN TRẢ VỐN DÀI HẠN (30-40 NĂM), THỜI GIAN ÂN HẠN DÀI (10 NĂM).
- Hỗ trợ đa phương: là nguồn hỗ trợ gián tiếp của các Chính phủ thông qua các tổ chức quốc tế như Liên Hợp Quốc, Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), Ngân hàng thế giới (WB), Ngân hàng phát triển châu Á (ADB)…Hỗ trợ đa phương có mục đích chính là vì sự phát triển và tiến bộ chung của toàn thể nhân loại nên nó ít chịu ảnh hưởng bởi mục đích kinh tế- chính trị của các nước hỗ trợ hơn so với hỗ trợ song phương.
3.4. Phân theo dạng quản lý và thực hiện:
Tuỳ theo đặc điểm của các nguồn vốn từ các nhà tài trợ song phương, đa phương hoặc từ nguồn phi chính phủ (NGO), hiện có những hình thức quản lý và thực hiện như sau:
- Các dự án, chương trình chịu sự quản lý qua một cấp: là dạng phổ biến nhất, bao gồm các chương trình, dự án có Ban quản lý chịu sự điều hành trực tiếp từ Bộ hay Tỉnh. Ví dụ: dự án cấp nước Gia Lâm của Hà Nội (Nhật Bản); dự án quốc lộ 1A (Ngân hàng thế giới) của Bộ Giao Thông Vận Tải.
- Các chương trình , dự án thuộc Bộ: bao gồm nhiều tiểu dự án thực hiện tại nhiều địa điểm.
- Dự án qua 2 cấp quản lý: các dự án chịu sự điều hành qua 2 cấp quản lý như: Bộ- Tổng công ty- Ban Quản lý dự án (PMU) hay Bộ-Liên hiệp- PMU.
- Các dự án do Bộ và địa phương cùng quản lý: Các dự án chịu sự điều hành từ Bộ và địa phương. Ban Quản lý dự án (QLDA) điều hành tiến độ thực hiện, quan hệ với đối tác, lập kế hoạch giải ngân… nhưng các tiểu dự án ở các thành phố, thị xã
cũng chịu sự điều hành từ các cơ quan thuộc tỉnh, đôn đốc thực hiện và phân bổ vốn
đối ứng.
- Các chương trình với sự lồng ghép tham gia của nhiều Bộ và địa phương: bao gồm các chương trình lồng ghép, thực hiện nhiều mục tiêu. Ban điều hành dự án gồm nhiều ngành, địa phương cùng tham gia thực hiện chương trình trên nhiều địa bàn khác nhau.
ĐỂ BIẾT THÊM THÔNG TIN TOÀN BỘ BÀI VIẾT XIN QUÝ KHÁC LIÊN HỆ
Hotline, ZALO : 0916 559 538
Mail: chuyenvietlvthacsi@gmail.com